Lịch sử hệ điều hành Windows của Microsoft xuyên suốt qua các thời kỳ – Từ hệ điều hành DOS xa xưa, đến Windows 10



Lịch sử hệ điều hành Windows qua các phiên bản
Hệ điều hành DOS
Hình 1: Hệ điều hành đầu tiên của Microsoft – PC-DOS 1.0
Những cải tiến tiếp tục được thực hiện, IBM đã liên hệ với công ty Microsoft để cung cấp hệ điều hành cho các máy tính IBM vào thời điểm ban đầu này. Khi đó Gates và Allen đã mua QDOS (quick and dirty operating system) từ Seattle Computer Products và đã điều chỉnh những cần thiết cho hệ thống máy tính mới.
Hầu hết người dùng PC thế hệ đầu tiên đều phải học để điều hành máy tính của họ bằng DOS. Nhưng hệ điều hành này không thân thiện một chút nào; nó yêu cầu người dùng phải nhớ tất cả các lệnh và sử dụng các lệnh đó để thực hiện hầu hết các hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như việc copy các file, thay đổi thư mục,… Ưu điểm chính của DOS là tốc độ và tiêu tốn ít bộ nhớ, đây là hai vấn đề quan trọng khi hầu hết các máy tính chỉ có 640K bộ nhớ.
Hệ điều hành Windows 1.0
Hình 2: Phiên bản đầu tiên của Windows – Windows 1.0
Hệ điều hành Windows 2.0
Hình 3: Các cửa sổ xếp chồng của Windows 2.0
Hệ điều hành Windows 3.0
Hình 4: Phiên bản Windows 3.0
Hệ điều hành Windows 3.1
Hình 5: Các font TrueType của Windows 3.1
Hệ điều hành Windows For Workgroup
Cũng được phát hành vào năm 1992, Windows cho các nhóm làm việc (viết tắt là WFW), là phiên bản dùng để kết nối đầu tiên của Windows. Ban đầu được phát triển như một add-on của Windows 3.0, tuy nhiên WFW đã bổ sung thêm các driver và các giao thức cần thiết (TCP/IP) cho việc kết nối mạng ngang hàng. Đây chính là phiên bản WFW của Windows thích hợp với môi trường công ty.
Hình 6: Windows cho các nhóm làm việc – phiên bản kết nối đầu tiên của Windows
Hệ điều hành Windows NT
Phát hành kế tiếp cho khối doanh nghiệp của Windows là Windows NT (từ NT là viết tắt của cụm từ new technology), phiên bản chính thức được phát hành vào năm 1993. Mặc dù vậy NT không phải là một nâng cấp đơn giản cho WFW mà thay vì đó nó là một hệ điều hành 32-bit đúng nghĩa được thiết kế cho các tổ chức có kết nối mạng. (Các phiên bản khách hàng vẫn được duy trì ở các hệ điều hành 16-bit).

Với những khả năng cải thiện về công nghệ kết nối mạng, NT đã trở thành một hệ điều hành chủ đạo cho các máy chủ và máy trạm doanh nghiệp trên toàn thế giới. Nó cũng là cơ sở cho hệ điều hành Windows XP, hệ điều hành sát nhập hai luồng Windows thành một hệ điều hành chung vào năm 2001.
Hệ điều hành Windows 95
Quay trở lại với hướng khách hàng, Microsoft đã sẵn sàng một phát hành mới vào tháng 8 năm 1995. Phiên bản Windows 95 này có lẽ là phát hành lớn nhất trong số các phát hành Windows.
Hình 8: Windows 95 – phát hành Windows lớn nhất chưa từng có
Có thể khá khó khăn để hình dung lại sau 15 năm, nhưng phát hành Windows 95 là một sự kiện mang tính lịch sử, với việc đưa tin rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng, các khách hàng đã xếp thành những hàng dài bên ngoài các cửa hàng từ nửa đêm để mua được những bản copy đầu tiên của hệ điều hành này.
Tuy nhiên những gì mới thực sự gây choáng? Windows 95 có diện mạo đẹp hơn và khả năng làm việc cũng tốt hơn, cả hai thứ đó đều đạt được mong mỏi của người dùng sau nhiều năm chờ đợi. Đây là một hệ điều hành được viết lại phần lớn và đã cải thiện được giao diện người dùng và đưa Windows sang nền tảng 32-bit giả mạo. (Nhân kernel 16-bit vẫn được giữ lại để có thể tương thích với các ứng dụng cũ).
Hệ điều hành Windows 98
Windows 98, cũng được lấy tên năm phát hành của nó (1998), là một thay đổi mang tính cách mạng so với phiên bản trước đó. Diện mạo bên ngoài của nó đẹp hơn Windows 95 khá nhiều, và thậm chí nó còn có nhiều cải thiện hữu dụng bên trong. Những cải thiện ở đây như sự hỗ trợ cho USB, chia sẻ kết nối mạng và hệ thống file FAT32, tuy tất cả đều những cải thiện này rất đáng giá nhưng không làm cho cả thế giới choáng ngợp như lần ra mắt của Windows 95.
Microsoft đã phát hành phiên bản nâng cấp “Second Edition” của Windows 98 vào năm 1999. Phiên bản này có ít những thay đổi đáng chú ý mà chỉ có hầu hết các bản vá lỗi.
Hệ điều hành Windows Me
Microsoft phát hành phiên bản Windows Millennium edition vào năm 2000. Windows Me, có lẽ là lỗi lớn nhất của Microsoft, một nâng cấp thứ yếu với rất nhiều lỗi thay vì sửa các lỗi trước đó.
Trong phiên bản mới này, Microsoft đã nâng cấp các tính năng Internet và multimedia của Windows 98, bổ sung thêm ứng dụng Windows Movie Maker, giới thiệu tiện ích System Restore – tất cả đều là những ứng dụng tốt. Tuy nhiên điều đáng chú ý nhất trong Windows Me đó là hiện tượng dễ đổ vỡ và hệ thống dễ bị treo. Nguyên nhân này đã làm cho nhiều khách hàng và các doanh nghiệp bỏ qua toàn bộ nâng cấp này.
Hệ điều hành Windows 2000
Được phát hành gần như đồng thời với phát hành dành cho khách hàng Windows Me, Windows 2000 là một nâng cấp thành công cho khối doanh nghiệp của Microsoft. Kế vị ngay sau Windows NT, Windows 2000 là một sự tiến hóa từ nền tảng cơ bản NT, và vẫn nhắm đến thị trường doanh nghiệp.
Hình 9: Windows 2000 – kẻ kế nhiệm cho Windows NT cho thị trường doanh nghiệp
Không giống như NT, Windows 2000 có hai phiên bản (Workstation và Server), Windows 2000 có đến 5 phiên bản khác nhau: Professional, Server, Advanced Server, Datacenter Server và Small Business Server. Tất cả các phiên bản đều kết hợp chặt chẽ các tính năng từ Windows 95/98 và tạo nên một giao diện đẹp mắt và tinh tế.
Hệ điều hành Windows XP
Các dòng hệ điều hành khách hàng và doanh nghiệp của Windows đã được nhập thành một với phát hành năm 2001 của Windows XP. Đây là phiên bản đầu tiên mà Microsoft đưa sự tin cậy trong dòng doanh nghiệp ra thị trường khách hàng – và đưa sự thân thiện vào thị trường doanh nghiệp. XP có sự pha trộng tốt nhất giữa các phiên bản Windows 95/98/Me với thao tác 32-bit của Windows NT/2000 và giao diện người dùng được tân trang lại. Về bản chất có thể cho rằng XP là kết hợp giao diện của Windows 95/98/Me vào NT/2000 core, bỏ qua cơ sở mã DOS đã xuất hiện trong các phiên bản khách hàng trước của Windows.
Hình 10: Giao diện thân thiện hơn của Windows XP
Với Windows XP, Microsoft đã bắt đầu phân khúc thị trường bằng một số phiên bản khác nhau, mỗi một phiên bản lại có một tập các tính năng riêng biệt. Các phiên bản khác nhau được phân khúc ở đây gồm có: XP Home Edition, XP Professional (cho người dùng khối doanh nghiệp), XP Media Center Edition, XP Tablet PC Edition, và XP Starter Edition (cho người dùng trong các nước đang phát triển). Tuy nhiều người dùng cảm thấy lộn xộn về sự phân khúc này, nhưng Microsoft dường như lại không quan tâm đến điều đó.
Từ quan điểm của người dùng, XP là một phiên bản đẹp hơn, nhanh hơn so với các phiên bản trước đó Windows 95/98 hoặc Windows 2000. (Nó cũng có độ tin cậy cao hơn so với hệ điều hành Windows Me thất bại trước đó). Giao diện Luna cho bạn thấy đẹp hơn và thân thiện hơn, tính năng Fast User Switching cho phép cùng một máy có thể được chia sẻ dễ dàng với những người dùng khác.
Hệ điều hành Windows Vista
Được phát hành năm 2007, phiên bản Windows này đã phát triển các tính năng của XP và bổ sung thêm sự bảo mật và độ tin cậy, chức năng truyền thông số được cải thiện và giao diện đồ họa người dùng Aero 3D đẹp mắt.
Hình 11: Giao diện Aero của Windows Vista
Chúng ta hãy bắt đầu với giao diện, để chạy được giao diện nâng cao này đòi hỏi các máy tính phải có cấu hình cao, chính vì lý do này mà Vista bị hạn chế khả năng nâng cấp từ nhiều máy tính cũ. Giao diện Aero hiển thị các thành phần 3D gần như trong suốt và đường bao cửa sổ kiểu kính, bên cạnh đó còn nhiều thứ trong Vista cũng rất khác biệt.
Các biểu tượng thư mục và file hiển thị bằng các thumbnail nội dung của chúng. Khi bạn chuyển giữa các ứng dụng đang mở, Windows sẽ cuộn và xoay vòng để hiển thị theo ngăn xếp 3D. Các cửa sổ trông uyển chuyển hơn, tròn trịa hơn và có tính mờ đục, tăng cảm giác sâu khi bạn xem nhiều cửa sổ trên màn hình. Bên cạnh đó còn có một Sidebar để giữ các Gadget, các ứng dụng nhỏ chuyên dụng cho một nhiệm vụ nào đó.
Bên trong, Vista được thiết kế để chạy an toàn và tráng kiện hơn Windows XP. Tuy nhiên một trong những tính năng bảo mật – người dùng phàn nàn nhiều – là User Account Control, tính năng này góp phần vào làm gián đoạn các hoạt động thông thường của người dùng. Dự định thì tốt (nhằm ngăn chặn không cho truy cập trái phép vào hệ thống), tuy nhiên khi thực thi thì chương trình lại làm cho người dùng tỏ ra rất khó chịu với các cửa sổ đòi hỏi sự cho phép xuất hiện quá nhiều.
Thậm chí tồi tệ hơn, nhiều người dùng gặp phải các vấn đề trong việc nâng cấp thiết bị cũ lên Vista. Nhiều thiết bị ngoại vi cũ không có driver tương thích với Vista (đây có thể coi là một vấn đề với bất cứ nâng cấp Windows nào), tuy nhiên có một số chương trình chạy trên XP không thể làm việc đúng cách trong môi trường Vista.
Chắc hẳn từ những yếu tố không thành công trên của Windows Vista mà Microsoft đã bắt tay vào để phát triển kẻ kế nhiệm cho Vista ngay lập tức – Windows 7 sắp được phát hành.
Vào ngày 11/4/2017, hệ điều hành này chính thức được Windows cho nghỉ hưu.
Hệ điều hành Windows 7
Phiên bản mới nhất của Windows dự kiến được phát hành vào tháng 10 năm 2009. Đó là quãng thời gian hai năm ngắn ngủi sau khi phát hành Windows Vista, điều đó cũng có nghĩa rằng nó không phải một nâng cấp chủ đạo (không đủ thời gian).
Thay vì đó chúng ta có thể nghĩ về Windows 7 với Windows Vista giống như mối quan hệ của Windows 98 với Windows 95. Nó chỉ là một phát hành thứ yếu, giống một gói dịch vụ hơn là một nâng cấp quy mô lớn.
Hình 12: Taskbar mới trong Windows 7
Vậy có những gì thay đổi trong Windows 7? Đầu tiên, phát hành này sẽ thay đổi những gì mà người dùng không thích trong Windows Vista. Phần cứng cũ và phần mềm cũ tương thích nhiều hơn, và thậm chí còn có cả tính năng Windows XP Mode cho phép chạy các ứng dụng trong thời đại XP trong môi trường nguyên bản của Windows 7. User Account Control cũng được cải thiện nhiều hơn để giảm bớt sự gián đoạn gây khó chịu đối với người dùng.
Tiếp đến, Windows 7 còn có một số thay đổi về mặt giao diện. Sidebar bị bỏ đi và thay vào đó bạn có thể đặt các Gadget trực tiếp lên desktop. Bên cạnh là chế độ Aero Peek mới cho phép bạn nhìn “đằng sau” tất cả các cửa sổ mở để thấy những gì bên dưới desktop, cũng như các hoạt động Aero Snaps mới cho phép bạn dễ dàng di chuyển và cực đại hóa các cửa sổ.
Mặc dù vậy thay đổi lớn nhất lại rơi vào taskbar, một dải cố định trên màn hình xuất hiện lần đầu tiên trong Windows 95. Taskbar mới trong Windows 7 cho phép bạn dock (neo đậu) cả các cửa sổ đang mở và các ứng dụng lẫn tài liệu ưa thích của bạn. Kích chuột phải vào một nút của taskbar, bạn sẽ thấy một Jump List các tài liệu gần đây và các hoạt động hữu dụng khác; đưa chuột qua nút taskbar, bạn sẽ thấy một ứng dụng đang mở và bạn thumbnail của tất cả các tài liệu. Có thể nói Windows 7 thay đổi cách bạn thực hiện trong nhiều thứ, tuy nhiên được nhiều người nhận định là những cách mang tính tích cực.
Hệ điều hành Windows 8/8.1
Phát hành: 26/10/2012
Thay thế: Windows 7 và Windows XP
Đổi mới đáng chú ý: Microsoft biết phải đạt được chỗ đứng trong thế giới di động, bao gồm cả điện thoại và máy tính bằng, nhưng họ không muốn từ bỏ người dùng máy tính để bàn và máy tính xách tay truyền thống. Vì vậy, họ đã cố gắng để tạo ra một hệ điều hành lai (hybrid OS), có thể hoạt động tốt trên cả thiết bị cảm ứng và không cảm ứng. Nhưng hiệu quả mà Windows 8 mang lại không được như mong đợi, Microsoft đã bỏ đi nút Start còn người dùng thì luôn cảm thấy bối rối khi sử dụng Windows 8.
Thực tế không rõ ràng: Microsoft gọi giao diện người dùng của Windows 8 là Metro, nhưng phải bỏ đi vì bị một công ty ở châu Âu kiện. Sau đó, nó được đổi tên thành Modern, nhưng điều đó cũng chưa được đón nhận nồng nhiệt.
Hệ điều hành Windows 10
Ngày phát hành: 29/07/2015.
Thay thế: Windows 8/8.1, Microsoft hi vọng có thể làm hài lòng người dùng hơn với một loạt tính năng mới
Windows 10 có lẽ là phiên bản được thử nghiệm và cập nhật nhiều lần nhất trong thời gian ngắn. Với rất nhiều tên và số phiên bản khiến người dùng cảm thấy khá hoang mang.
Đổi mới đáng chú ý: Menu Start đã quay trở lại. Đây cũng là phiên bản Windows cuối cùng được đặt tên. Những bản cập nhật sau sẽ có một vài biệt hiệu riêng. Windows 10 được đánh giá cao hơn rất nhiều so với các phiên bản trước đây. Giao diện, các tính năng đã thiết thực và phục vụ tốt hơn cho người dùng, dù là làm việc hay giải trí. Các tính năng mới cũng như những cải tiến mà Windows 10 mang lại chỉ 1 vài dòng không đủ để diễn tả hết. Hiện tại người dùng đã có thể tải về các bản cập nhật của Windows 10 để trải nghiệm những tính năng hấp dẫn mà hệ điều hành này mang lại. Bản cập nhật mới nhất tính đến thời điểm viết bài này là April 2018 Update.
Các phiên bản cập nhật của Windows 10 tính đến 27/08/2020
- Windows 10 1507: Threshold 1, ngày phát hành 29/07/2015, build mới nhất là 10240
- Windows 10 1511: Threshold 2, ngày phát hành 10/11/2015, hay November Update, build 10586
- Windows 10 1607: Redstone 1, ngày phát hành 02/08/2016, hay Anniversary Update, build 14393
- Windows 10 1703: Redstone 2, ngày phát hành 05/04/2017, hay Creators Update, build 15063
- Windows 10 1709: Redstone 3 hay còn gọi là Fall Creators Update, ngày phát hành 17/10/2017, hiện tại đã có thể tải Fall Creators Update để xem trước. Bạn đã cập nhật Windows 10 Fall Creators Update vào ngày 17/10 chưa?
- Windows 10 1803 – April 2018 Update, ngày phát hành 16/04/2018.
- Windows 10 Windows 10 1809 – October 2018 Update, ngày phát hành 02/10/2018). Phiên bản này có rất nhiều lỗi ngớ ngẩn và đã được Microsoft thu hồi.
- Windows 10 1903 – May Update, ngày phát hành 21/05/2019. Mình update thẳng từ 1803 lên 1903, hiện dùng bản này thấy khá hài lòng, cộng thêm quả SSD nên rất “phê”.
- Windows 10 1909 – có tên mã là 19H2, phát hành ngày 12 tháng 11 năm 2019.
- Windows 10 2004 – có tên mã là 20H1 hay còn gọi là Windows 10 May Update 2020, dự kiến ra mắt vào tháng 5/2020 nhưng đã bị chậm đến ngày 09 tháng 06 năm 2020. Đây đang là bản Windows 10 hiện hành, tuy nhiên vẫn còn khá nhiều lỗi vặt phát sinh. Bạn có thể xem bài đánh giá Windows 10 2004 tại đây.
- Windows 10 2009: Tên mã là 20H2, phiên bản Windows 10 20H2 đang trong giai đoạn phát triển và đã có những thông tin đầu tiên về nó: Windows 10 20H2 (phiên bản 2009) đã được phát hành thử nghiệm cho người dùng doanh nghiệp